Writen by
vn.neurology
02:58
-
0
Comments
PHONG BẾ THẦN KINH TRONG ĐIỀU TRỊ
ĐAU ĐẦU DO THẦN KINH CHẨM LỚN
1. Giới thiệu
Đau
đầu vùng chẩm còn được gọi là đau đầu Arnold (Arnold's neuralgia). Hiệp hội đau
đầu quốc tế IHS (internantional headache society) định nghĩa đau đầu vùng
chẩm là những cơn đau kịch phát như dao đâm ở phần sau của hộp sọ tương ứng với
đường đi và phân bố của các dây thần kinh chẩm lớn và chẩm bé, có thể một hoặc
hai bên.
Vị
trí đau điển hình đau từ vùng ụ chẩm lan dọc lên phía đỉnh đầu thuộc đường đi
và phân bố của các thần kinh chẩm lớn GON (greater occipital nerve), thần kinh
chẩm bé LON (lesser occipital nerve) hoặc thần kinh chẩm thứ 3 TON (third
occipital nerve). Cơn đau khởi phát đột ngột, kéo dài khoảng 1-3 ngày, thường
một bên. Đây là tình trạng bệnh lý rất thường gặp, IHS ước tính có khoảng 5%
dân số ở độ tuổi trưởng thành mắc chứng này.
Nguyên
nhân, đa số các trường hợp đau Arnold đều tự phát, không rõ nguyên nhân. Trong
một số trường hợp, người ta tìm thấy một số nguyên nhân bao gồm: chấn thương,
viêm khớp đốt sống cổ C2, đau thần kinh sinh ba cùng bên, xung đột thân kinh
mạch máu giữa ĐM tiểu não sau dưới với rễ thần kinh C1/C2, thông động tĩnh mạch
màng cứng vùng C1/C2, các khối u phần mềm vùng C1/C2, viêm đốt sống cổ C2,
thoái hoá đốt sống cổ cao, u mạch thể hang trong tuỷ cổ....
Theo
IHS, tiêu chuẩn chẩn đoán đau đầu do thần kinh chẩm gồm:
A
|
Đau đầu một hoặc hai bên, kèm theo
một trong các tiêu chuẩn từ B-E
|
B
|
Đau đầu vùng chẩm theo vị trí phân
bố của GON, LON, TON
|
C
|
Các triệu chứng đau có 2 trong 3
tính chất sau
|
1. Cơn đau tái phát có tính chất
kịch phát, kéo dài vài giây đến vài phút
|
|
2. Đau dữ dội
|
|
3. Đau chói như dao đâm, bị cắt
hay bị bắn
|
|
D
|
Đau kèm theo với 2 tính chất sau
|
1. Đau tăng lên dữ dội khi có
những kích thích vô hại ở vùng da đầu hoặc tóc
|
|
2. Một hoặc hai tính chất sau:
|
|
a. Co cứng da đầu vùng đau
|
|
b. Có biểu hiện giật cơ vùng thần
kinh chẩm lớn hoặc vùng tương ứng đốt sống cổ C2
|
|
E
|
Triệu chứng đau cải thiện rõ khi
sử dụng thuốc gây tê tại chỗ
|
F
|
Triệu chứng không cải thiện khi sử
dụng các phương pháp ICHD-3 khác
|
Phong bế thần kinh chẩm (occpital
nerve block) là một loại kỹ thuật gây tê tại chỗ, tiêm hỗn hợp dung dịch gồm
thuốc gây tê và thuốc chống viêm corticoid vào dây thần kinh chẩm để cắt đứt
đường dẫn truyền những kích thích gây đau đi qua thần kinh chẩm. Đây là phương
pháp được áp dụng vừa để chẩn đoán xác định, vừa để điều trị kiểm soát đau nửa
đầu có nguyên nhân tổn thương thần kinh chẩm.
2. Chỉ định
·
Chẩn
đoán đau đầu do tổn thương thần kinh chẩm
·
Điều
trị đau đầu do tổn thương thần kinh chẩm
3. Chống chỉ định
·
Không
có chống chỉ định tuyệt đối
·
Chống
chỉ định tương đối khi có tổn thương phần mềm dưới da vùng chẩm: viêm da, áp xe
phần mềm, dị dạng động tĩnh mach...
4. Nguyên lý kỹ thuật
Thần kinh chẩm lớn thuộc thần kinh
tuỷ sống (spinal nerve), được tách từ bó trong thuộc nhánh lưng của rễ thần
kinh cổ C2, đi ra từ lỗ tiếp hợp của đốt sống cổ C1 - C2, sau đó đi lên trên
vào trong rồi song song và cách đường giữa khoảng 1.5cm, từ sâu ra nông. Nguyên
lý cơ bản là chặn đường dẫn chuyền thần kinh cảm giác của các thần kinh chẩm.
Có 2 phương pháp chặn đường dẫn truyền thần kinh được áp dụng phổ biến hiện nay
là sử dụng các thuốc gây tê tại chỗ và sử dụng đốt sóng cao tần
(radio-frequency ablation).
Phương pháp dùng thuốc sử dụng hỗn
dịch thuốc gây tê tại chỗ (lidocain, buvicaine...) trộn lẫn với thuốc chống
viêm corticoid (methyl prednisonol) sau đó tiêm trực tiếp vào dây thần kinh và
phần mềm xung quanh.
5. Quy trình kỹ thuật
Phong bế thần kinh chẩm có thể được
thực hiện mù dựa vào các mốc giải phẫu vùng chẩm, gáy để xác định vị trí đường
đi của các thần kinh chẩm.
Với kỹ thuật phong bế mù (blind
approach), đầu tiên cần xác định các mốc giải phẫu ụ chẩm và mỏm chũm. Thần
kinh chẩm lớn đi qua trung điểm của đoạn thẳng nối hai mốc này. Một cách khác
để xác định là phía dưới ụ chẩm khoảng 3cm, các dây thần kinh chẩm lớn cách các
mỏm gai đốt sống cổ khoảng 1.5cm. Do tiếp cận mù, không quan sát trực tiếp được
các sợi thần kinh nên phương pháp này có thể không đạt được hiệu quả tối đa.
Hiện
nay, đa số các bác sỹ sử dụng siêu âm có độ phân giải cao để xác định thần kinh
chẩm lớn, chẩm bé để thực hiện phong bế. Do có thể quan sát được trực tiếp các
dây thần kinh trên siêu âm nên việc phong bế trúng đích hầu như được đảm bảo
tuyệt đối, do vậy hiệu quả phong bế sẽ đạt tối đa.
Các bước tiến hành như sau:
- Bệnh nhân nằm sấp, trán kê gối
mềm, đầu đội mũ che tóc
- Siêu âm xác định vị trí thần kinh
chẩm
- Gây tê tại chỗ bằng Lidocain 1%
với kim 25-25G
- Dùng kim 22G tiếp cận thần kinh
chẩm dưới hướng dẫn siêu âm
- Phong bế thần kinh chẩm bằng hỗn
dịch 20 mg Methylprednisolone / 2.5 mg Bupivacaine 0.5%. Hiệu quả tối đa khi
hỗn dịch này được bơm khuếch tán xung quanh dây thần kinh chẩm
- Tiếp tục thực hiện tương tự với
bên đối diện (nếu có triệu chứng)
6. Kết quả điều trị
Ngay
sau khi phong bế thần kinh chẩm, người bênh thường giảm đau ngay lập tức. Theo
nhiều nghiên cứu (Navani et al, 2006) thì khoảng 60-70% các trường hợp hết đau
hoặc giảm đau đáng kể trong thời gian 4-5 tháng. Sau thời gian này, nếu các
triệu chứng tái diễn, người bệnh tiếp tục được thực hiện lặp lại quy trình
phong bế tương tự.
7. Tai biến liên quan thủ thuật
·
Viêm,
nhiễm trùng da và mô mềm
·
Dị
ứng thuốc phong bế thần kinh
Kết luận
Đau
nửa đầu nói chung và đau đầu thần kinh chẩm nói riêng là tình trạng bệnh lý khá
phổ biến, ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng sống của người bệnh. Khi chưa
xác định hoặc điều trị dứt điểm được nguyên nhân gây bệnh thì liệu pháp phong
bế thần kinh chẩm giúp cải thiện hiệu quả các triệu chứng cho người bệnh. Đây
là phương pháp thực hiện không quá phức tạp, dễ áp dụng, có hiệu quả giảm đau
kéo dài. Thực hiện kỹ thuật phong bế thần kinh dưới hướng dẫn siêu âm sẽ làm
tăng hiệu quả điều trị.
Không có nhận xét nào
Đăng nhận xét